Tổng Quan Tỷ Lệ Lạm Phát Ở Việt Nam Qua Các Năm: Thông Tin Mới Nhất

Biểu đồ lạm phát của Việt Nam

 

Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam từ 2011 đến 2022, với năm 2011 đạt đỉnh ở mức 18.58%, và năm 2015 ghi nhận mức thấp nhất là 0.63%. Từ năm 2014 đến 2022, Việt Nam đã nỗ lực kiểm soát lạm phát duy trì ổn định dưới 4%.

Dưới đây chuyêntaichinh sẽ tổng hợp mức lạm phát ở Việt Nam qua các năm, mời bạn đón đọc.

1. Biểu đồ lạm phát của Việt Nam

Biểu đồ cột hiển thị số liệu từ 2011 đến 2022, với chiều cao các cột giảm dần từ trái sang phải.

Lạm phát của Việt Nam qua từng năm

2. Thống kê lạm phát ở Việt Nam qua các năm

Năm 2011, lạm phát leo thang tới 18.58%, trong khi đó nền kinh tế không phá vỡ ngưỡng tăng trưởng mặc dù dòng tiền đổ ra rất lớn, đẩy lạm phát lên những kỷ lục mới: CPI hàng tháng trong năm này tăng trung bình 1.4%, với sự khác biệt lớn giữa tháng cao nhất và thấp nhất tới 3 điểm phần trăm.

Năm 2012, lạm phát đã được ghìm cương xuống 9.21%, với 7 tháng mà CPI chỉ dưới 1%, đa phần chỉ tăng dưới 0.5%, thành quả nhờ vào việc thực hiện kịp thời Chỉ thị 25/CT-TTg và nâng cao công tác quản lý, điều hành và ổn định giá cả của chính phủ.

Lạm phát năm 2013 đạt mức thấp nhất trong giai đoạn 2003 – 2013, chỉ ở mức 6.6% tăng chỉ số tiêu dùng, GDP mỗi quý đều tăng, và lạm phát đã được kiểm soát như mục tiêu (dưới 8%), xuất khẩu đi lên và kinh tế vĩ mô giữ vững ổn định.

Lạm phát năm 2014 chạm đáy ở mức 1.84%, so với năm trước đó tăng 4.09%, song vẫn dưới mục tiêu kiểm soát mà chính phủ đề ra. Nhóm hàng giao thông giảm mạnh nhất, do việc điều chỉnh giá xăng.

CPI bình quân năm 2015 tăng 0.63% so với 2014, mỗi tháng CPI năm 2015 chỉ tăng 0.05%, với nhóm hàng giao thông và nguyên vật liệu xây dựng cùng với lương thực là những mặt hàng giảm mạnh nhất.

CPI bình quân năm 2016 tăng 2.66% so với 2015 nhưng vẫn nằm trong mục tiêu 5% của Quốc hội. Lạm phát cơ bản của năm 2016 tăng 1.83% so với năm 2015.

Lạm phát 2017 đã tăng 3.53% so với 2016, CPI giảm tốc nửa đầu năm, với lạm phát cơ bản cũng giảm dần. Nhóm tăng nhiều nhất là thuốc và dịch vụ y tế do điều chỉnh giá theo Thông tư 37/2015/TTLT-BYT-BTC.

Năm 2018, lạm phát tổng cao hơn lạm phát cơ bản, chủ yếu do tăng giá nhóm giao thông, lương thực thực phẩm, dịch vụ y tế. Lạm phát cơ bản dao động từ 1.18% đến 1.72%, với bình quân tăng 1.48%. CPI bình quân năm 2018 tăng 3.54%.

Biểu đồ với mũi tên đỏ đi xuống trên nền bản đồ thế giới và biểu đồ cột, thể hiện xu hướng giảm.

CPI năm 2019 bình quân tăng 2.79% so với 2018, mặt bằng giá tăng cao trong dịp Tết, giảm nhẹ tháng 3, tăng trong tháng 4, 5, lại giảm tháng 6 và tăng dần cuối năm.

CPI 2020 trung bình tăng 3.23% so với 2019, đạt mục tiêu Quốc hội dưới 4%, với tăng giá nhóm lương thực, y tế và giáo dục, trong khi xăng dầu và vận tải du lịch giảm.

CPI 2021 tăng 1.84% so với năm trước, đạt mức này nhờ tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp gây ra sự giảm mạnh trong nhu cầu tiêu dùng của người dân.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2022 tăng 3,15% so với năm 2021, trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tiếp tục leo thang, nhất là ở Châu Âu và Mỹ, một số nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái, thiên tai diễn biến khó lường. Nhóm hàng xăng dầu tăng 28%, thực phẩm tăng 1,62%. Giá nguyên liệu trên thế giới có xu hướng giảm do kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại, trong khi xung đột giữa Nga và Ukraine còn căng thẳng. Sự phục hồi của kinh tế Trung Quốc sau đại dịch có thể khiến nhu cầu năng lượng tăng cao.

Trung bình 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số CPI tăng 3,29% so với cùng kỳ năm trước. Quốc hội đã đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 5% (mục tiêu 4,5%), GDP tăng 6,5%, nhưng việc đạt được CPI này có thể không dễ. Năm 2023, kinh tế toàn cầu dự kiến tăng trưởng chậm, lạm phát giữ ở mức cao, nguy cơ suy thoái kinh tế rõ hơn, làm gia tăng rủi ro bất ổn chính trị, xã hội ở một số quốc gia.

Một số chuyên gia kinh tế dự báo CPI trung bình năm 2023 sẽ nằm trong khoảng 4 – 4,5% do nhập khẩu tăng, cung tiền lớn từ cuối năm 2022, và một số nhóm hàng tiêu dùng thiết yếu, y tế, giáo dục tăng giá…

Bốn người kéo một chồng tiền có cánh bay lên bằng dây thừng, tượng trưng cho việc tiền khó giữ.

Chi tiết các mức lạm phát qua các năm và sự biến đổi của nền kinh tế

Bạn nên đọc: Lãi nhập gốc

3. Nguyên nhân lạm phát của Việt Nam qua các năm

Người đang cố gắng đẩy xe đẩy hàng lên dốc cùng biểu đồ mũi tên hướng lên, biểu thị sự nỗ lực.

Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng lạm phát

Các yếu tố chính dẫn đến lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2012 – 2022 được kiểm soát tốt xuất phát từ:

Thứ nhất, sự chênh lệch giữa sản lượng thực tế (GDP) và sản lượng tiềm năng

Khám phá: Tỷ Giá Giao Ngay

Theo các trường phái kinh tế học cổ điển và Keynes, một yếu tố tác động đến CPI là sự tăng trưởng của sản lượng thực so với sản lượng tiềm năng. Khi sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng, có thể nền kinh tế suy thoái, nhưng khi sản lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng, nền kinh tế phát triển quá mức dẫn đến lạm phát.

Khi hai đại lượng này cân bằng, nền kinh tế ổn định. Tốc độ tăng GDP thực tế giai đoạn 2011-2022 lần lượt là 6,41%; 5,50%; 5,55%; 6,42%; 6,99%; 6,69%; 6,94%; 7,47%; 7,36%; 2,87%; 2,56%; 8,02% – trung bình 5,85% theo số liệu từ Tổng cục Thống kê.

Tỷ lệ tăng trưởng GDP tiềm năng trung bình tại Việt Nam giai đoạn 2011-2022 là khoảng 5,9%, cho thấy hai sản lượng tăng gần bằng nhau, nền kinh tế ổn định, lạm phát không cao.

Thứ hai, chi tiêu của Chính phủ

Các khoản chi Ngân sách Nhà nước có xu hướng mở rộng theo sự phát triển kinh tế xã hội. Giai đoạn 2011 – 2015, chi NSNN đạt 6.324,5 nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 2005 – 2010.

Từ 2016 – 2020, quy mô chi đã tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 2005 – 2010. Chính phủ đã điều chỉnh cắt giảm chi thường xuyên để kiểm soát ảnh hưởng từ dịch bệnh COVID-19.

Dù quy mô chi tiêu tăng nhưng tốc độ gia tăng lại có xu hướng chậm lại. Nguyên nhân là trong giai đoạn 2009 – 2012, Chính phủ mở rộng chi tiêu nhằm hỗ trợ nền kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Tuy nhiên, từ 2014 – 2020, việc Chính phủ thúc đẩy tái cơ cấu chi tiêu công đã góp phần giảm bội chi ngân sách và nợ công quốc gia, từ đó làm giảm tốc độ tăng chi NSNN. Nhờ đó, chính sách tái cơ cấu chi tiêu và đầu tư công của Chính phủ đã ghi nhận những thành công nhất định, giúp ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững và kiểm soát lạm phát hiệu quả.

Thứ ba, chính sách tiền tệ

Theo NHNN, trước năm 2011, tín dụng là kênh chính cung cấp vốn cho nền kinh tế, với mức tăng trung bình 36%/năm trong giai đoạn 2007 – 2010, khiến tỷ lệ tín dụng/GDP tăng nhanh gây bất ổn kinh tế vĩ mô và lạm phát cao ở mức hai con số. Vì thế, từ năm 2012, NHNN đã triển khai nhiều biện pháp điều hành nhằm định hướng toàn ngành và giao chỉ tiêu tín dụng hàng năm cho từng tổ chức để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Trong giai đoạn 2012 – 2021, tăng trưởng cung tiền M2 đạt trung bình 14%/năm, tăng trưởng tín dụng từ 2011 – 2022 chỉ còn khoảng 12 – 14%/năm, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Nhờ đó, tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2 và tín dụng có mối quan hệ với chỉ số CPI.

Chính sách tiền tệ khi được vận hành tốt đã đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát và duy trì lạm phát ở mức ổn định.

Một chồng đồng xu xếp chồng lên nhau trên mặt bàn, phía sau là mô hình trái đất nhỏ màu xanh và hồng.

Các chính sách tiền tệ của Việt Nam ảnh hưởng lớn đến tình hình lạm phát

Thứ tư, cán cân thương mại

Việt Nam, dù là nền kinh tế nhỏ, nhưng có tính mở cao với tỷ lệ xuất khẩu trên GDP luôn trên 70%. Đồng thời, 87% hàng hoá nhập khẩu vào nước ta được dùng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước, chủ yếu phục vụ tiêu dùng nội địa như sắt, thép, vải, máy móc, phân bón, linh kiện điện tử, ô tô nguyên chiếc, hóa chất… Khi giá hàng hoá thế giới biến động tiêu cực, giá cả trong nước cũng bị ảnh hưởng xấu theo. Do đó, Việt Nam “nhập khẩu” cả lạm phát từ nước ngoài. Xem thêm: Cán cân thương mại là gì?

Thứ năm, dịch bệnh bất ngờ

Sự bùng phát của dịch COVID-19 hoàn toàn bất ngờ và khó lường. Trong thời kỳ này, kinh tế giảm sút, người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu nên lạm phát cũng duy trì ở mức thấp.

4. Lạm phát ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam như thế nào?

Biểu đồ đường màu đỏ tăng vọt từ túi giấy chứa nhiều loại thực phẩm khác nhau.

Những tác động sâu rộng của lạm phát tới nền kinh tế tổng thể

Các chuyên gia đánh giá, từ năm 2014 đến nay, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam duy trì ở mức tương đối thấp, dưới 4%.

Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã gây nên vòng xoáy tăng trưởng chậm cho Việt Nam, với GDP liên tục dưới 7%. Trong thời gian này, lạm phát tăng cao chưa từng thấy, lên tới hai con số: năm 2008 đạt đến mức…“`html

Trong giai đoạn 2012 – 2013, khi khủng hoảng nợ công bùng phát ở Châu Âu, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ với lãi suất cao. Tuy nhiên, do thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa chính sách tiền tệ và tài khóa, các biện pháp này không mang lại hiệu quả như mong đợi. Nhiều cá nhân và tổ chức tận dụng cơ hội để vay vốn giá rẻ rồi gửi ngân hàng kiếm lời từ chênh lệch, gây tác động tiêu cực đến kinh tế vĩ mô, dẫn đến đầu tư phân tán, tồn đọng nợ và lãng phí tài chính vào các dự án.

Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, vàng thường leo thang mạnh mẽ, do người dân đổ xô mua vàng như một giải pháp an toàn, càng tích trữ vàng, giá càng leo thang.

Để kiểm soát lạm phát, nhiều Chính phủ sử dụng công cụ lãi suất. Lãi suất cao tạo áp lực lên lãi suất điều hành, lãi suất vay mua nhà, kinh doanh và tín dụng… Thời gian càng kéo dài càng gây tác động tiêu cực đến tâm lý tiêu dùng của người dân và doanh nghiệp, khiến họ ngần ngại đầu tư và phát triển, từ đó nguồn thu ngân sách Nhà nước cũng giảm sút.

Lạm phát đẩy giá nguyên vật liệu lên, cùng với đó là nguy cơ nhập khẩu lạm phát không tránh khỏi, chi phí đầu vào trong nước vì thế cũng tăng, dễ dẫn đến khả năng tăng giá trong sản xuất hàng hóa, dịch vụ, khiến doanh nghiệp đối diện nguy cơ thua lỗ.

Ngoài áp lực từ việc tăng giá nguyên liệu đầu vào, các doanh nghiệp còn phải đối mặt với chi phí vận chuyển, khấu hao, lãi vay và tiền lương đang leo thang. Hậu quả là, công suất làm việc của nhân công và thiết bị không thể tối ưu hóa, nhiều doanh nghiệp rơi vào cảnh nợ nần và phá sản, buộc phải sa thải công nhân viên.

Điểm tích cực là, kinh tế Việt Nam duy trì sự ổn định trong hoạt động xuất khẩu, không chịu ảnh hưởng bởi biến động kinh tế toàn cầu từ năm 2012 đến 2022, kể cả trong các đợt bùng dịch.

Với một quốc gia lấy xuất nhập khẩu làm động lực phát triển chính, sự tăng trưởng yếu ớt của kinh tế thế giới và lạm phát gia tăng gây ra khó khăn do đứt gãy nguồn cung nguyên liệu, chi phí logistics tăng cao, từ đó ảnh hưởng lớn đến khả năng tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

5. Đối phó khi lạm phát xảy ra?

Để kiểm soát lạm phát dưới mức 5%, Chính phủ cần tích cực giải quyết các khó khăn và rào cản về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính, cùng lúc rà soát và bãi bỏ những quy định không hợp lý để giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh công bằng, cởi mở, đảm bảo nguồn cung ứng luôn đủ để đáp ứng tổng cầu.

Người mặc áo hoodie đứng trên sân thượng, cầm laptop, nhìn cảnh thành phố và biểu đồ tài chính trên nền trời.

Tình hình lạm phát mỗi năm yêu cầu các hướng giải quyết riêng biệt

Ngoài ra, cần thực hiện đồng bộ các chính sách tiền tệ, tài khóa và các chính sách kinh tế khác để duy trì ổn định vĩ mô, điều chỉnh tỷ giá phù hợp nhằm hạn chế tối đa nhập khẩu lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.

Chính phủ cần lên kế hoạch đánh giá tác động của việc tăng giá hàng hóa và dịch vụ đến tăng trưởng kinh tế để đưa ra quyết định mức độ và thời điểm điều chỉnh giá, đặc biệt là đối với những hàng hóa dịch vụ mang tính độc quyền, hoặc do Nhà nước quản lý, nhằm tránh tạo ra hiệu ứng lạm phát do chi phí đẩy.

Xem thêm: Chiến lược đầu tư người ít vốn sinh lời nhanh chóng

Các cơ quan chức năng cần đảm bảo minh bạch và đơn giản hóa các quy trình thương mại, khuyến khích và thúc đẩy mạnh mẽ và chia sẻ thông tin thương mại để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong nước, phát triển cả bán buôn và bán lẻ nhằm giảm chi phí thương mại trong và ngoài nước, đồng thời nâng cao thị phần hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.

Các cơ quan quản lý hàng hóa cần đưa ra dự báo sớm về thiếu hụt để doanh nghiệp đề ra chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất, đồng thời tự chủ nguồn nguyên liệu và phát triển kinh tế.

Cơ quan truyền thông cần cung cấp thông tin chính xác và kịp thời về các chính sách của Chính phủ, tránh việc lan truyền thông tin sai lệch làm ảnh hưởng đến tâm lý thị trường và gây lạm phát.

Các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào năng lượng nhập khẩu nên hướng đến sử dụng năng lượng tái tạo, cắt giảm chi phí nếu giá tăng cao, cải thiện hình ảnh thương hiệu và tăng cường lợi thế cạnh tranh để thu hút đầu tư.

Trên đây là thông tin về tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam trong những năm qua. Chuyên Tài Chính mong bạn có cái nhìn tổng quan nhất về tình hình lạm phát hiện nay.

Lên đầu trang